Thứ Tư, 16 tháng 2, 2011

QUAY VỀ QUÁ KHỨ VỚI TIỀN NHÂN ĐỂ XÂY DỰNG MỘT TƯƠNG LAI CHO HẬU THẾ


Kính gửi quý Độc Giả,

Chúng tôi (Vĩnh Nhất Tâm) kính chuyển bài việt này, dù bài này tuy đã viết cách đây khoảng trên dưới 10 năm. Chúng tôi không lầm là đã có phổ biền trên Nguyệt San Việt Nam Online. Và nay vẫn thấy bài viết còn có thể gửi lại dành cho các bạn trẻ trong và ngoài nước, có cơ hội tìm hiểu thêm về tinh thần bất khuất và sự cương cường của tiền nhân từ thời chống thực dân Tàu đến chống thực dân Pháp, và các bậc lãnh đạo tinh thần của các Tôn-giáo trong nước, và nhất là những ý hay và lời vàng ngọc của tiền nhân mà chúng tôi đã mạo muội và mạn phép chép lại cho các bạn rõ thêm về thế nào là vai trò lãnh đạo chống xâm lăng của Việt-tộc.

Trân trọng,

Vĩnh Nhất Tâm

TB Khi phổ biến lại chúng tôi có thêm bốt vài chữ và có bỏ vài đoạn, nếu có gì làm các bạn khó hiểu, chúng tôi xin sẵn sàng cùng với các bạn trao đổi. Địa chỉ email: vinhnhattam@aol.com

QUAY VỀ QUÁ KHỨ VỚI TIỀN NHÂN ĐỂ XÂY DỰNG MỘT TƯƠNG LAI CHO HẬU THẾ

LNV: Bắt nguồn từ sự nhận thức về quá trình đấu tranh của dòng chính sử, người viết xin mạo muội dựa vào nguồn sử liệu, các tác phẩm văn học và báo chí liên hệ, với mục đích là dành cho thế hệ trẻ trong và ngoài nước thuần nhất về mặt đấu tranh giữ nước của tiền nhân, trong dịp Lễ Tưởng Niệm Mười Ba Vị Anh-Hùng Yên Bái lên đài vinh-quang đền nợ nước tại pháp trường vào mờ sáng tinh sương 17-06-1930. Và đồng thời cho lớp trẻ hiểu về sử qua tinh thần dân tộc, không phải qua nhản quan một triều đại hay chế độ, để tránh sự ngộ nhận sau này của một số trẻ về dân tộc sử quan và cái gọi là "duy vật sử quan" của cs. Và mong thế hệ trẻ tìm tòi để hiểu rõ hơn: Tại sao mà người Việt phải đành đoạn bỏ nước ra đi?

Người viết một lần nữa ! Xin thưa rằng; chắc chắn sự thiếu sót, vụng về và kém cỏi về phần suy luận không thể nào tránh được, mong quý bậc trưởng thượng, sử gia, thức giả và đồng hương niệm tình thứ cho.

***

Quay về quá khứ với tiền nhân, muôn dân ai mà không hãnh diện ? Một lịch sử đầy hào hùng và bất khuất của tiền nhân từ thời dựng và giữ Nước với một huyền thoại "CON RỒNG CHÁU TIÊN", mang một bản sắc thật đặc biệt trong tinh thần hướng thượng. Dù dân tộc Việt Nam đã phải trãi qua trong cái lò trầm luân của nhân loại đã lâu, nhưng vẫn tiếp nối truyền thống với tâm hồn luôn luôn son trẻ, nhiệt thành và dũng cảm trong một niềm tin đầy sinh khí, theo đà tiến hóa của nhân loại mà đấu tranh cho quyền sống và bình đẳng của con người cùng với cộng đồng nhân loại.

Một chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn năm để tồn tại, bên cạnh một đế quốc phong kiến của phương Bắc (Tàu). Chúng tìm bằng mọi cách để thống trị dân tộc Việt một cách rất bạo tàn, không ngưng nghỉ. Dân tộc Việt Nam phải chịu trần ai, cơ cực trãi qua non mười thế kỷ, sau khi triều đại Triệu Đà mất vào tay nhà Hán. Sự chịu đựng trong tinh thần nung đúc đến lúc trưởng thành và bùng nổ, đó là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi nhà Hán, chính là cuộc cách mệnh khởi đầu cho một nền "TỰ CHỦ".

Để minh chứng một cách hùng hồn về nền "TỰ CHỦ", mà Hai Bà Trưng đã thực hiện cuộc cách mệnh giải phóng dân tộc đầu tiên trong Dòng Sử Việt. Tiếp sau đó, các bậc Anh-Hùng và Nữ-kiệt như: Triệu Trinh Nương, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương …Dòng Họ Khúc đến thời Vương Ngô Quyền sau một cuộc thủy táng trăm ngàn quân Nam há trên dòng sông Bách Đằng. Đó là thời điểm nỗi bật và thể hiện nền độc lập từ năm 938 một cách toàn diện.

Tiếp bước tiền nhân, những bậc minh quân và những thiên tài quân sự đầy tài năng, thao lược và uy-dũng giữ nền độc lập một cách toàn diện và vĩnh cữu: Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn ( Quang Trung Nguyễn Huệ), chấm dứt nạn Bắc thuộc và sự thống trị bạo tàn của phong kiến phương Bắc không còn tiếp diễn trên giang sơn Đại Việt nữa kể từ đó.

Để gợi lại tinh thần bất khuất của một vị Hoàng Đế đã làm triều đại cuối cùng của phương Bắc là Mãn Thanh đến kinh hoàng và khiếp đảm, sau lời huấn thị với đoàn hùng binh, trước khi xuất quân ra Bắc đuổi xâm lăng :

"…Quân Thanh kéo quân xâm lấn, hiện đang chiếm cứ Thăng Long, các người "đã hay tin ấy ?

Trong vòng trời, đất chia theo phận sao Dực, Chẩn; Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Người phương Bắc không phải nòi giống ta thì tất khác dạ. Từ nhà Hán về sau, "họ cướp đất đai ta: cá thịt nhân dân, vơ vét của cải, nông nỗi ấy thật khó chịu quá ! Người trong nước ai cũng phải nghĩ đánh đuổi đi.

Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Lê Đại Hành và Lý Thường Kiệt, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các cụ không chịu bó tay ngồi nhìn quân ngoài tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy quân khởi nghĩa, đánh "thắng rồi đuổi chúng về. Trong những khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài từ nhà Đinh tới nay, chúng ta không đến nỗi phải chịu cái khổ Bắc thuộc. Đó lợi, hại, được thua: chuyện cũ rành, rành là thế.

Nay, người Thanh không soi gương Tống, Nguyên, Minh lại sang mưu chiếm nước Nam ta, đặt làm quận huyện! Vậy ta phải vùng ra mà khử trừ đi!

Các anh em, hạng người có trí thức, có tài năng, phải cùng ta đồng lòng gắng sức , khiến cho việc lớn được nên, chớ đừng giở thoái nhị tâm đó! Hễ việc phản trắc lộ ra thì đừng trách rằng không báo trước" (Trích từ Quang Trung Nguyễn Huệ Anh-Hùng Dân Tộc của tác giã Hoa Bằng).

Nạn Bắc thuộc đã được chấm dứt từ đó, đối với dân tộc Việt Nam là một đại phúc, suốt trong một chiều dài lịch sử mà tiền nhân đã phải cam go lắm mới đuổi được chúng nó và giữ yên bờ cõi. Dòng Chính Sử đã để lại cho dân tộc Việt Nam một kho tàng kinh nghiệm, một tinh thần bất khuất, một sự hy sinh thật cao cả của toàn dân và một không gian gắn bó để tồn tại. Thế mà vận nước vẫn chưa thoát khỏi nạn tai ương, khởi đi từ óc vọng ngoại của những tư tưởng phong kiến tối tăm, tiếp tục đưa dân nước vào vòng đô hộ của thực dân Pháp, kéo dài non một thế kỷ.

Tiếng súng xâm lăng của thực dân Pháp bắt đầu từ cửa bể Đà Nẳng và tiếp tục lan rộng, gieo rắc tang thương trên khắp ba miền Nam Trung Bắc để thỏa mãn cái dòng máu thực dân man rợ của chúng. Các bậc sĩ-phu, các nhà chí-sĩ dấy động lên những cao trào từ Cần Vương, Văn Thân…Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Quang Phục và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên… quyết một lòng đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập và mang dân tộc ra khỏi vòng kềm kẹp và sự đô hộ của thực dân Pháp từ phương Tây.

Sau gần sáu mươi năm, cảnh tang thương, tù tội và đầy dẫy chết chóc trên quê hương Việt Nam dấu yêu, mà thực dân Pháp đã cố tình mang đến. Sau tiếng bom tại Sa-điện của vị anh-hùng Phạm Hồng Thái mưu sát tên Méc-lanh (Merlin) nắm chủ chốt toàn quyền Đông Dương. Việc tuy không thành, nhưng ảnh hưởng rất lớn cho tinh thần đấu tranh cách-mệnh của giới trẻ thời đó.

Nguyễn Thái Học xuất hiện với bầu nhiệt huyết thương nước yêu nòi, không ngần ngại hay sợ sệt, kể cả mạng sống. Vì lẽ, Ông còn tin tưởng rằng; ít nhất trong bè lũ thực dân Pháp vẫn còn có những người con dân nước Pháp, học hỏi được tinh thần hướng thượng của tiền nhân họ như ông Jacques Rousseau, La Fontain, Montesquieu, v.v.. đã từng đấu tranh đòi nhân quyền và tự do cho dân tộc Pháp, để xứng đáng làm một con người trong một xứ văn minh mà tiền nhân họ đã dày công xây dựng.

Bắt nguồn từ đó, sự gặp gở Varenne, tên toàn quyền Đông Dương của nhà Cách-Mệnh Nguyễn Thái Học với mục đích duy nhất là trao bản đều trần trong một thài độ rất cởi mở và tương kính với tấm lòng bao dung. Bản điều trần gồm những đề nghị: Cải cách nền công, thương Việt Nam, và nhất là thiết lập một trường Cao Đẳng Công Nghệ ở Hà Nội, và kèm theo cả dự án giúp đở dân nghèo, được sống cuộc đời tương đối dễ chịu hơn. Hắn (Varenne) đã không thực hiện lời đề nghị trong bản điều trần, mà còn áp dụng chính sách ngặt nghèo và khó thở hơn. Nhà Cách Mệnh Nguyễn Thái Học vẫn điềm nhiên gởi tiếp thêm bức thư cùng một nội dung đầy đủ vẫn không thấy phúc đáp. Ông không thất vọng mà còn gởi tiếp lá đơn đến tên "Thống sứ Bắc-kỳ", xin phép xuất bản một nguyệt san lấy tên là "Nam Thanh" mong phổ biến và nâng cao trình độ dân trí, nhưng cũng không được nhà cầm quyền thực dân Pháp chấp thuận, còn viện dẫn đủ lý do để né tránh.

Tiếp nối tiếng "TRỐNG MÊ-LINH" đuổi xâm lược nhà Hán và lập nên nền "TỰ CHỦ" là ngọn "CỜ YÊN BÁI" quyết thực hiện cuộc cách-mệnh đuổi thực dân và lập nên nền "DÂN CHỦ" vào cuối thập niên 1920 (tức là ngày 25 tháng 12 năm 1927), lúc giao thời giữa Đông Tây theo tiến trình văn minh của cộng đồng nhân loại.

Cuộc gặp gở và thư tín với tên toàn quyền Đông Dương không thành tựu. Ông cùng với một số thanh niên trí thức tại Nam Đồng Thư Xã, thành lập một Đảng Cách-Mệnh danh xưng Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ). Sau vu giết tên Bazin đã được thực hiện, mà nhà Cách-mệnh Nguyễn Thái Học đã để lại những lời thật vàng ngọc cho các Đồng-chí Dân-chủ của mai sau lấy đó làm một bài học kinh nghiệm:

"Đứng trước cảnh thống khổ của đồng bào, một số Đoàn Viên Việt Nam Quốc Dân Đảng ở trong các xí nghiệp: Gô Đa, Poinsard et Veyret, Descourd et Cabaud… cử đại biểu là đồng chí Nguyễn Văn Viên là Ủy Viên trong Thành-bộ V.N.Q.D.Đ. được Thành-bộ trao phó trách nhiệm lãnh đạo các Chi-đoàn Công-nhân, đến yêu cầu Tổng-bộ cho thi hành giết tên trùm mua bán nô lệ là Bazin, để trừ mối đại họa cho dân tộc.

Bước vào khách sạn Việt Nam (khách sạn Việt Nam là nơi tổ chức kinh tài của Đảng) Nguyễn Văn Viên gặp Nguyễn Thái Học, Hoàng Văn Đào và Nguyễn Hữu Đạt, đồng chí Viên đưa đề nghị của các đại biểu Chi-đoàn Công-nhân yêu cầu Tổng-bộ xét, xin ra lệnh cho Ban Ám Sát giết Bazin. Đảng-trưởng Nguyễn Thái Học trả lời:

- Nếu nay vội giết Bazin, tất nhiên chính quyền thực dân sẽ khủng bố dữ dội, mà đa số đồng chí trong cấp lãnh đạo của Đảng chúng ta phần đông có tên trong "SỔ ĐEN" của sở mật thám. Thực dân sẽ bắt hết , Đảng sẽ tan lợi ít mà hại nhiều. Vậy khuyên các đồng-chí nên bình tâm để rán sức làm việc lớn đang chờ đợi ở Đảng chúng ta. Bazin chẳng qua chỉ là cái cành cây, cây mà đổ tức khắc cành phải héo." (trích từ V.N.Q.D.Đ. của Cụ Hoàng Văn Đào).

Sau, vụ ám sát tên mua bán nô lệ Bazin của một Đ/C trong Đoàn Ám Sát, biết là không giữ đúng như lời của nhà Cách-Mệnh Nguyễn Thái Học đã khuyên. Vì sự tàn ác vô nhân tính của tên trùm mua bán nô-lệ Bazin đành phải khử trừ, dù phải chịu tội trước kỷ luật Đảng… Từ đó, trong tình thế căng thẳng và cấp bách phải dẫn đến hai cuộc hội nghị lịch sử tại Võng La và Mỹ Xá: " Vì tình thế mỗi ngày mỗi bất lợi cho Đảng, Lãnh-tụ Nguyễn Thái Học cấp tốc từ Kinh Bắc trở lên Phú Thọ, triệu tập họp khẩn cấp vào ngày 26 tháng 1 năm 1930 tại làng Võng La.

Mặc dầu Nguyễn Thái Học, Xứ Nhu và Phó Đức Chính đã bị đội Dương phản bội mưu bắt hụt tại Võng La này, nhưng nhờ địa thế cũng như vấn đề nhân sự, việc tổ chức Đại biểu Đảng vẫn rất thuận lợi có bảo đảm.

Đại-hội khoảng 20 người, nhưng hầu hết đại biểu ở miền Trung Du, khi Nguyễn Thái Học từ ngoài tiến vào, các đại biểu mới an tọa , không khí phòng họp trở nên trang nghiêm.

Nguyễn Thái Học cất tiếng:

"Thưa các Đồng Chí,

Chúng ta làm cách mệnh bằng sắt máu, bao giờ cũng phải lấy lực lượng quân đội làm phần chủ lực. Nay Phạm Thành Dương đã tạo phản, phần chủ lực đã bị sứt mẻ rồi! Phần khác, số khí giới dự trử cũng bị địch khám phá được rất nhiều. Nếu nay chúng ta không hành động ngay; thế tất, số võ trang đồng chí và số võ khí còn lại, cũng sẽ bị địch làm tan vỡ hết ! Đến khi ấy chỉ còn lại một số ít bom soàng, dáo nhụt, với những đội Tiện Y ô hợp, thì liệu chúng ta có thể chiến đấu với những đạo quân có tổ chức và được huấn luyện kỹ càng, cùng khí giới tinh nhuệ được không ?

"Người ta bão: cần đứng trước ở chổ không thua! Nhưng chúng ta thì đứng trước chổ thua mất rồi!

"Thế nhưng liệu chúng ta hãy hoãn để tổ chức lại rồi mới đánh có được không? Tôi tin rằng không thể được! Cuộc đời là cả một canh bạc, gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch hết cả vốn.

"Gặp thời thế không chìu mình; Đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã xen vào trong đầu óc quần chúng, khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng, thì phong trào cách mệnh có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi của sẽ không tiếp, người sẽ bị bắt lần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mõi ở các nơi phòng ngục nhà giam âu là chết đi, để lại cái gương hy sinh phấn đấu cho người sau nối bước.

Chúng ta KHÔNG THÀNH CÔNG THÌ THÀNH NHÂN" có gì mà ngần ngại!"

(Trích từ Việt Nam Quốc Dân Đảng của cụ Hoàng Văn Đào)

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái trong nhất thời thất bại, nhưng tuyệt nhiên về mặt tinh thần quật khởi ngày càng lan rộng, đã khiến cho thực dân Pháp phải nao núng. Dù chúng có muốn duy trì chế độ thực dân tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, cũng không thể tồn tại được trên cái ngôi vị thực dân. Từ sự nao nung đó, đang trong thời kỳ bước vào vòng tranh chấp của hai khối Tư Bản và Cộng Sản ngày càng lớn mạnh, tìm cách thao túng chính trường cả Đông Tây, cùng lúc thực dân Pháp phải rơi vào con đường tiến thối lưỡng nan. Chính trong những năm, thực dân Pháp lúng túng, đã là cơ hội cho bọn tay sai của Cộng Sản Quốc tế do Hồ Chí Minh cầm đầu. Chúng có rất nhiều cơ hội vừa trá hình yêu nước, vừa phỉnh gạt nhân dân và độc hại hơn nữa là mượn tay thực dân Pháp để tiêu diệt thành phần đảng phái quốc gia chân chính trong khối toàn lực của dân tộc.

Khi HCM chiếm được ưu thế, mới dở cái mặt nạ và đồng lõa với ngoại bang xé nước Việt Nam ra làm hai mảnh. Lấy con sông Gianh và biến thành con sông máu và nước mắt của toàn dân.

Trên thực tế: "các nhà lãnh đạo phe thế giới dân chủ (Tư Bản) như Truman, Churchill, và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á" (Trích trong bài thuyết trình của Luật Sư Nguyễn Hữu Thống tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam đầu năm 2000 tại Nam California ). Nhưng ngược lại, Cộng Sản Quốc Tế điều nghiên một cách kỹ lưỡng trên mặt chỉ đạo đối với các tay sai và chư hầu nhất là đối với Hồ Chí Minh.

Nhìn lại trang sử đầy hào-hùng và bất khuất, để thấy tại sao CSQT cần lợi dụng và khai thác mầm mống phản quốc của HCM ? Cách đây, hơn bảy thế kỷ mà thế giới cũng phải công nhận; nếu không phải là một dân tộc đoàn kết và bất khuất qua trang sử oanh oanh, liệt liệt thời đuổi Nguyên của Hội Nghị Diên Hồng, thì dân tộc Việt Nam đã phải rơi vào thuộc Mông từ đó? Một lục địa rộng lớn như Tàu, trong đó có nhiều nước cọng với Vạn Lý Trường Thành kiên cố, mà vẫn phải rơi vào tay Mông Cổ; huống chi một nước nhỏ như nước Việt chúng ta vào thời đó. Ngay "Tại Hung gia Lợi, giáo chủ và giai cấp phong kiến vừa mới tạm yên thì Mông Cổ như trận cuồng phong ào tới, vua Bela tử trận…máu người Hung chảy như nước suối…Đầu thế kỷ thứ VIII, Hồi Quốc đang thịnh đạt và một đế quốc khá lớn gồm Ba-Tư, Tiểu Á -–Tế Á và Cận Đông, bề ngang kéo dài từ Ấn Độ đến Bagdad, dọc bờ biển Aral tới Vịnh Ba-Tư… cũng tan vở từ đấy…

Các quốc gia Tây Âu nghe tin này cũng vô cùng khủng khiếp coi như ngày tận thế đã tới. Giáo Hoàng Innocent IV và vua thánh Louis nước Pháp phải cử người sang cầu hòa với Mông Cổ." (Trích từ Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn).

Chính sự nghiên cứu một cách kĩ lưỡng của CS quốc tế, nên chúng đã dùng HCM không chỉ riêng cho khối CSĐD mà cả vai trò lãnh tụ CS tại ĐNA. Staline cần HCM trong nhiều dụng ý khác nhau, đến nổi bỏ quên cả Mao Trạch Đông đang trên đường triển vọng nắm được quyền sinh sát một khối dân đông nhất thế giới. Cả khối Tư Bản từ trước cho đến nay cũng đã biết như vậy, chỉ có địa thế hiểm yếu và lòng bất khuất của một dân tộc như dân tộc Việt Nam mới có thể làm lá chắn, ngăn cản ngõ chính, mà CS Tàu sẽ tràn xuống để thực hiện mộng bá chủ thế giới, khi thế đủ mạnh. Lòng tham muốn từ óc phong kiến cố cựu của Tàu có thể xãy ra trong tương lai dù bất kỳ dưới hình thức nào chăng nữa ! Nếu thế giới tự do, nhất là Mỹ và khối châu Âu không sẳn sàng cho một thế chiến lược đề phòng hay chận đứng trước một hiểm họa, khi cộng sản Tàu đủ sức khuynh loát, thì sự nguy hiểm không phải chỉ riêng cho Việt Nam, mà cả thế giới ?

Cũng nên ngưng tại đây về phần nguyên nhân nào, đã đưa Hồ Chí Minh nhuộm đỏ được miền Bắc và tiếp sau đó là miền Nam vào 30-04-1975, để khỏi phải lặp lại những điểm then chốt, mà đâu đó rất nhiều thành phần trong giới trẻ đã thấu hiểu, cũng như phần kết luận cuộc thuyết trình của LS Nguyễn Hữu Thống như sau:

"Nói tóm lại:

1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc ĐCSĐD (Đông Dương Cộng Sản Đảng) đã phạm sai lầm chiến lược khi liên kết với QTCS (Cộng Sản Quốc Tế) để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm.

2) ĐCSĐD không có công giành độc lập vì Việt Nam đã được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée năm 1949. Hơn nữa, Việt Nam đã được đăng ký tại LHQ (Liên Hiệp Quốc) là một quốc gia độc lập từ năm 1947.

3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước vì Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sáp nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất. Trên bình diện dân tộc 3 cuộc chiến tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh vô ích, nếu không nói là tai hại.

4) Vì vậy ĐCSĐD không có tư cách và tính chính thống để độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và nhất là từ nay về sau.

Vì những lý do nói trên, chế độ CS phải được giải thể để cho người dân được quyền mưu cầu hạnh phúc trong một chế độ dân chủ pháp trị trong đó có các dân quyền và nhân quyền được tôn trọng , kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực thi."

Vận nước phải tiếp tục nổi trôi, sau ngày HCM cùng ngoại bang chia đôi đất nước. Dân của hai miền Nam Bắc thế nào thì sau 30-04-1975, cả nước ai cũng biết đâu là sướng, đâu là khổ, đâu là tự do và đâu là nô lệ? Còn ở đây, người viết chỉ thuần nhất là gợi lại nét son trong tinh thần tiếp bước tiền nhân, để an dân và giữ nước của biết bao nhiêu bậc anh-hùng đã hiên ngang bước vào chính sử và đặc biệt là năm (5) vị Tướng: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai và Phạm Văn Phú đã tuẩn tiết trong khí phách của một vị tướng quân, là biểu tượng sáng ngời của miền Nam tự do cho thệ hệ trẻ trong và ngoài nước biết thêm về dòng chính sử của Việt Tộc, mà tác gỉa đã viết một cách khái quát ở trên.

Cái gọi là "thống nhất" đất nước của csVN, đã trãi qua từ 26 năm ròng rã, cả thôn quê đến thành thị từ thức giả đến dân giả, từ các vị tu hành đến các bậc lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo về mặt tâm linh, không được quyền tự do hành đạo. Còn ngược đãi đồng bào hơn thời Bắc thuộc và Tây thuộc.

"Thế cùng tất biến" là định luật chung đưa các bậc lãnh đạo tôn giáo trong tinh thần đấu tranh bất bạo động, đòi nhân quyền và tự do tôn giáo cho dân tộc Việt Nam. Đồng bào thiểu số tại những vùng Tây Nguyên cũng đồng lúc đứng lên đòi đất đai và của cải mà cs đã áp bức và chiếm đoạt. Chưa hết ! Còn nhiều tập thể quần chúng đang chiến đấu âm thầm như: sinh-viên, thành phần trí thức và thành phần đối lập v.v…

Thế đấu tranh tại quốc nội ngày càng dử dội, thời gian gần đây mà truyền thanh và báo chí đã loan tin trãi rộng khắp thế giới là Hòa Thượng Thích Quảng Độ đòi hỏi cs VN phải thay đổi theo 8 điểm, nêu lên trong thông điệp đã phổ biến một cách công khai. Linh-Mục Nguyễn Văn Lý dõng dạc với lời tuyên bố bất khuất " Tự do tôn giáo hay là chết" và nhiều bản tuyên cáo lên án HCM của Linh Mục Nguyễn Văn Lý qua làn sóng truyền thanh. Phật giáo Hòa Hão có Cụ Lê Quang Liêm lãnh đạo và hưởng ứng tinh thần đấu tranh của Linh Mục Nguyễn Văn Lý, đồng thời lập Hội Đồng Liên Tôn của ba tôn giáo lớn tại Việt Nam: Phật-giáo, Công-giáo và Phật-giáo Hòa Hão. Thêm việc Cụ Bà Nguyễn Thị Thu tự thiêu để đấu tranh cho công lý và quyền đạo pháp…

Diễn trình đấu tranh đòi hỏi nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ tại quốc nội từ muôn mặt, hầu đạp đổ một chế độ độc tài phi dân tộc; dưới một ngụy thuyết lỗi thời của Mác-Lê do bọn phỉ quyền cs VN mang về cung phụng, để đày đọa dân tộc trong suốt mấy mươi năm. Đâu khác chi nền thống trị bạo tàn của phong kiến thực dân phương Bắc và thực dân đô hộ của phương Tây, mà còn hiểm độc hơn thế nữa trong cùng một màu da chủng tộc. Đó là một sự sỉ nhục và tàn hại nhất trong dòng lịch sử của dân tộc cần phải chấm dứt.

Một thành trì vững chắc khởi đi từ niềm tin của dân tộc cùng với mặt trận tâm linh và người Việt tị nạn tại hải ngoại đang vận động trở thành mặt trận quốc tế, để yểm trợ quốc nội về cuộc đấu tranh: nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ trên đất nước Việt Nam cho dân tộc Việt Nam. Bọn cs VN đang trong thế vẫy vùng là hiện tượng sắp chết của một con vật, sau cuộc điều trần tại Quốc Hội Mỹ về nhân quyền và tự do tôn giáo. Chỉ sau hai tiếng đồng hồ, cs đã quay sang bắt Linh Mục Nguyễn Văn Lý, công an bao vây Thanh Minh Thiền Viện như muốn vồ bắt Thượng Tọa Thích Quảng Độ và bao vây tư thất Cụ Lê Quang Liêm một cách đe dọa. Thật đúng! Bọn cs VN chỉ là một chính quyền rất ấu trỉ, lỗi thời và lạc hậu hay nói một cách khác hơn là một kẻ mù mà phân định màu sắc.

Thượng Tọa Thích Quảng-Độ, Cụ Lê Quang Liêm và Linh Mục Nguyễn Văn Lý là những bậc đấu tranh cho chân lý thì đâu có bao giờ nghĩ đến chuyện bản thân về tù tội hay sát hại. Ngày xưa, hiền triết Socrate đấu tranh cho chân lý, ngài cũng bị vua chúa thời đó kết án ngài là một phản thần và bị xử án: Một là phủ nhận những đều ngài đã truyền giảng về chân lý, hai là phải uống thuốc độc mà chết. Ngài đã nâng chén thuốc độc uống và Ngài chết cho chân lý sống.

Diễn trình đấu tranh của dân tộc Việt Nam trong hiện tại, cho một nền dân chủ pháp trị sẽ và phải lên ngôi, mà Hoàng Đế Lê Thánh Tông là sáng lập viên về luật nhân quyền và dân quyền từ Bộ Luật Hồng Đức đã ra đời năm 1483, cách đây 5 thế kỷ, còn trước cả Luật Dân Quyền của Anh Quốc 1689, Luật Dân Quyền Pháp Quốc 1789, và Luật Dân Quyền Hoa-Kỳ năm 1791. Tuy là một nước Việt Nam nhỏ bé, còn phải thường xuyên đối đầu với một nước khổng lồ đầy ắp phong kiến, tàn bạo và hiểm độc ở bên hông, mà đã ra đời với một Bộ Luật đi trước cả Tây phương hơn ba trăm năm. Một Bộ Luật thật phong phú từ quyền bình đẳng đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa thì dân tộc Việt Nam đâu có thể bỏ quên được ?

Vĩnh Nhất Tâm 17.06.2001


TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG


Cuộc cách mạng ở Ai Cập đã thành công; khiến nhiều người cùng đồng ý rằng cuộc cách mạng này không khác gì cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, sẽ dấy lên một ngọn lửa toàn cầu thiêu đốt tất cả các nước bị độc tài, độc đảng cai trị. Ký giả Gregory White đã liệt kê 11 xứ sở sẽ tiếp nối Ai Cập (11 Countries At Rish Og Becoming The Next Egypt), gồm các quốc gia Moroco, Jordan, Syria, Saudi Arabia, Iran, LibyaYemen, Pakistan, Venezuela, Việt Nam và Trung Cộng. Có lẽ nghĩ rằng Cu Ba và Bắc Hàn sẽ đương nhiên sụp đổ một khi Trung Cộng và Việt Cộng bị lật đổ nên không có tên trên bảng phong thần này. Tất cả các quốc gia này đều mang một mẫu số chung: độc tài, tham nhũng, cách biệt giàu nghèo quá chêch lệnh, dân chúng cơ cực, đàn áp các tự do. Riêng các nước Cộng Sản còn đèo bòng thêm cái đuôi đàn áp tôn giáo. Có điều đặc biệt là hầu hết lãnh đạo các quốc gia này lại là "đồng minh" thân thiết của Hoa Kỳ.

Riêng Việt Cộng, ngoài những "đức tính" khốn nạn ghi trên còn có nạn "làm tôi tớ ngoại bang và dâng lãnh thổ cha ông cho Trung Cộng, có những tệ nạn không một nước nào có, đó là buôn bán con người như súc vật với những màn hàng trăm thiếu nữ trần truồng trước mặt những người ngoại quốc để họ chọn làm vợ, hoặc thiếu nữ Việt Nam bị các nước khác coi như súc vật, cho đứng tủ kính để khách mua về "xài 1 tuần, không muốn thì trả lại", hoặc xuất cảng trai gái vị thanh niên trên dưới 10 tuổi sang nước khác để làm nô lệ tình dục.

Dân tộc Việt Nam còn ý  chí cách mạng không?

Dân tộc Việt Nam phải trãi qua mấy cuộc chiến tranh khốc liệt, "Chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất" của Việt Cộng giết chết dã man hơn 200 ngàn nhân mạng vô tội, phá nát không biết bao nhiêu gia đình. Sự tàn sát man rợ đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân, 1968 cọng với những khỗ cực, nhục nhã mấy chục năm trường khiến nhiều nhà phân tích đã phải ngao ngán mà cho rằng người Việt Nam đã mất hết ý chí quật cường, quên hết tự ái dân tộc, y như một kẻ bị trấn nước, được Việt Cộng nhắc lên khỏi mặt nước là cấp tốc lợi dụng để thở, không còn ý chí để thoát khỏi cái chết trước mắt. Nói như thế chẳng khác nào một bản cáo trạng tố cáo tội ác ghê tởm nhất lịch sử nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng của Hồ Chí Minh và đồng đảng của hắn ta dưới cờ máu Cộng Sản. Nhưng nhận xét nói trên không đứng vững khi những người trẻ sinh ra và lớn lên trong chế độ Cộng Sản Việt Nam nhất là những người ở miền Bắc là những người đứng lên chống đối sự tàn ác của Việt Cộng, như Lê Thị Công Nhân, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, v.v… dù biết là sẽ gánh lấy sự trả thù hèn hạ của Cộng Sản. Nói cách khác chắc chắn dân chúng Việt Nam thế nào cũng lật đổ chế độ Cộng Sản, nhất là khi có luồng gió cánh mạng toàn cầu, bắt đầu từ Ai Cập.  Ngoài ra, sự kiện hầu như 99% những đảng viên Cộng Sản khi về hưu đều tỏ thái độ chấp nhận những gì Cộng Sản làm đều hại dân, hại nước và cho rằng chủ nghĩa Cộng sản phải bị bỏ vào sọt rác, sở dĩ lúc đương quyền họ vì quyền lợi vật chất mà đành cùng đồng bọn phản dân hại nước mà thôi. Dù sống trong lòng chế độ, hoặc sinh trong lòng chế độ, người Việt Miền Bắc đã ý thức đấu tranh cho Việt Nam. Riêng những người lớn lên và được đào tạo tại Miền Nam có căn bản nhận thức rất rõ về Cộng Sản. Như thế, không thể chấp nhận luận điệu cho rằng người Việt đã mất ý chí đối kháng, kể cả đối kháng với Tàu xâm lược là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam. Do đó, cuộc cách mạng tại Việt Nam phải xảy ra trong một tương lai rất gần.

Việt Nam chưa sẵn sàng cho một cuộc cách mạng?

Trên thực tế không có một cuộc cách mạng nào có chuẩn bị chu đáo, có đầy đủ điều kiện mà đã gọi là cách mạng tức là một sự tức nước vở bờ, một hoàn cảnh "không thể chịu đựng được" nữa. Những yếu tố này Việt Nam có nhiều hơn các nước trên thế giới, nhất là Ai Cập. Trong những điều kiện tương đồng của 11 nước đã nói trên đầu bài, Việt Nam có tất cả mà còn thêm nạn xâm lăng của Tàu gần kề. Tóm lại Việt Nam rất cần một cuộc cách mạng càng sớm càng tốt.Luận điệu Việt Nam chưa sẵn sàng cho một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng lật đổ Cộng Sản không phải là "nhu cầu bức thiết cho Việt Nam hôm nay" chỉ là những uận điệu tay sai Việt Cộng.

Cuộc cách mạng diễn ra như thế nào?

a.- Thành phần nào tham gia cuộc cách mạng?

-Chắc chắn là tuổi trẻ đi đầu, thanh niên, sinh viên, học sinh rồi đến các thành phần dân tộc tiếp theo. Tuy nhiên, đã gọi là tức nước vỡ bờ thì không thể "ấn định:" thành phần nào trước nào sau.

-Dân oan là thành phần bị áp bức, bị xô vào bước đường cùng trước  tiên và sau cùng. Vì bao lâu còn Việt Cộng, bấy lâu còn tham nhũng và "mức độ" tham nhũng ngày càng tăng, tỉ lệ thuận với thời gian, do đó thành phần dân oan ngày càng tăng, càng "bức xúc" đến không thể chịu đựng hơn nữa.

-Giáo dân các tín đồ tôn giáo. Trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, còn Việt Cộng các tôn giáo càng bị bóc lột, đàn áp, tiêu diệt một cách tàn bạo hơn là những cuộc "bách hại" của phong kiến ngày xưa. Việt Cộng hôm nay không chủ trương giết từ tín đồ, từ đạo hữu như ngày trước, trái lại chúng dùng những thủ đoạn đê hèn, những cám dỗ xa hoa vật chất và nhất là tình dục để lũng đoạn các chủ chăn, các vị lãnh đạo tôn giáo. Một khi đã nắm được  yếu điểm của chú chăn là chúng bắt đầu thao túng tôn giáo đó. Ðiễn hình là đối với công giáo, hàng Giám Mục phải về hùa với Việt Cộng trong những hành động trực tiếp phản lại tín lý Công giáo như dịch thuật sai lạc Kinh Thánh, dạy cho chủng sinh lý thuyết vô thần, khuyến khích và lũng đoạn những kẻ sắp chịu các chức thánh, nhất là chức Giám mục.

Trong khi đó thì chúng tha hồ đàn áp giáo dân, tước đoạt tài sản, cấm hành đạo ở các nơi xa xôi. Và mục đích cuối cùng của Việt Cộng là tách rời Giáo Hội Công Giáo ra khỏi Giáo hội hoàn vũ, dưới quyền của Ðức Giáo Hoàng La Mã. Ðiển hình là linh mụcHuỳnh Công Minh, một đảng viên Cộng Sản lâu đời vẫn được các Tổng Giám Mục Saigon để hắn ta giữ chức Tổng Ðại Diện, vừa rồi đã thẳng tay công kích vụ Giáo Hoàng cắt cử "Ðại Diện Không Thường Trú" tại Việt Nam.

Vụ Vatican bắc tử Ðức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt với chiến dịch cầu nguyện của ngài đã làm cho Việt Cộng run sợ, chúng cầu cứu Vatican và với sự hỗ trợ của  những tên nằm vùng tại Vatican, Việt Cộng đả "sử" được Vatican ra lệnh cho Ðức TGMNgô Quang Kiệt ngưng chiến dịch cầu nguyện, như cất khỏi cổ Việt Cộng một hòn đá trăm cân! Sau đó là một màn Vatican và Hà Nội làm nhục Ðức Cha Kiệt mà chúng tôi đã có dịp trình bày từ trước. Nhưng bây giờ,  Ðức Cha Kiệt vẫn là một cái gai trong con mặt Việt Cộng và những giám mục bỏ Chúa chạy theo Cộng Sản gần như công khai.

Những sự kiện nêu trên là nỗi bức xúc, căm phẫn của toàn thể giáo dân Việt Nam nói chung, giáo phận Hà Nội nói riêng. Ðây là ngọn lửa cách mạng đã và đang bị đè nén, bung ra hồi nào không ai có thể dự đoán.

Ngoài Công giáo ra, các giáo phái Tin Lành đối với Việt Cộng chúng không kiêng dè, chúng công khai đàn áp như các vua chúa ngày xưa bách hại đạo Công giáo. Thành phần này không đông đối với 2 tôn giáo lớn là Công Giáo và Phật giáo tại Việt Nam, nhưng họ có một Ðức Tin rất mạnh và sẵn sàng hy sinh vì danh Chúa. Ðây cũng là một tia lửa chưa biết bùng phát thành ngọn lửa hồi nào hay bất cứ lúc nào.

Những ngày gần đây, tay sai Việt Cộng hải ngoại đã tung ra những đòn thù đánh vào các vị lãnh đạo Phật Giáo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, nhất là Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ. Chúng dở lại trang sử cũ thời 1963, đồng thời kích động 2 tôn giáo Công Giáo và Phật giáo chia rẽ, thù hận nhau. Chúng ta chỉ đặt một câu hỏi: tại sao trong khi Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ luôn luôn giữ vững giềng mối của Phật Giáo là một lợi điểm quan trọng cho công cuộc lật đổ chế độ Cộng Sản mà những tên tự xưng mình "chống Cộng" lại không ngớt đả kích ngài, trong khi đó những hành vi phản đạo trắng trợn của các vị sư khác chúng không đả động đến? Tuy nhiên, khối Phật giáo thầm lặng là các tín đồ Phật Giáo trong nước ngày càng đau lòng vì những tên công an mang danh tu trì trongPhật Giáo Quốc Doanh, bôi bác Phật Pháp làm cho Phật giáo đồ cũng đã sẵn sàng cho cuộc lật đổ. Xin đừng viện cớ "tôn giáo không làm chính trị". Chỉ cần thi hành đúng đắn Thánh Kinh và Phật Pháp cũng đủ để chủ nghĩa Cộng Sản không còn đất sống, chẳng cần phải nhân danh tôn giáo để làm chính trị.

Hai tôn giáo hiện nay bị BViệt Cộng triệt hạ hầu như "hoàn toàn bị tiêu diệt" là Cao Ðài và Hòa Hảo. Nhưng chính vì sự "tiêu diệt" đó trở nên hạt giống tốt lành cho một cuộc phục hưng giáo hội Cao Ðài và Phật Giáo Hòa Hão.

b.- Ðâu là "điểm", đâu là "Diện"?

Ðập rắn phải đập đằng đầu. Do đó, Hà Nội là nơi cần phải biểu dương lực lượng trước tiên. Là ưu tiên một, là "điểm". Hà Nội nơi đông đúc dân cư, nơi có nhiều "liệt sĩ" và rất dễ huy động một lượng người hành trăm ngàn. Hà Nội là nơi đầu não của bọn cai trị. Ðập được đầu là cả thân mình bất động. Các mục tiêu cần chiếm là Bộ Chính Trị, dinh Thủ Tướng và Quốc Hội, nhất là đài phát thanh và truyền hình, tòa soạn các báo "lề phải" tức công cụ của Việt Cộng.

Ngày trước trong chiến dịch "Cầu Nguyện" của Ðức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, đã tập trung nhanh chóng mấy ngàn giáo dân, hứa hẹn sẽ có cả mấy chục ngàn, đủ số lượng cho một cuộc chiếm đóng các nơi trọng yếu của Việt Cộng. Ngày nay, nếu một cuộc cách mạng bùng nỗ, chắc chắn sẽ tập trung đông đảo hơn.

Ba tỉnh Nghệ, Tỉnh, Bình tức Nghệ An, Hà Tỉnh, và Quảng Bình là địa dư của Giáo Phận  Vinh Công Giáo và cũng là 3 tỉnh có máu cách mạng truyền thống, lương cũng như giáo. Ðây cũng là nơi sản sinh ra nhiều bậc chân tu Phật giáo và cũng là mục tiêu tàn sát Phật Giáo của Việt Cộng trong hai cuộc chiến tranh. Tất cả những cuộc thăm dò đều cho biết 3 tỉnh này có tinh thần "không sợ Việt Cộng" rất cao. Nếu cuộc cách mạng bùng nổ đầu tiên tại đây, lực lượng Việt Cộng sẽ bị cắt đôi giữa Nam và Bắc. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ và tức khác đến thủ đô Hà Nội. Là xúc tác mạnh mẽ cho Saigon và các tỉnh miền Tây.

Saigon là thủ đô VNCH, tiếp giáp với Ðồng Nai mà những ngày gần đây đã có những nhà đấu tranh cho tự do dân chủ. Hà Nội là "điểm" cần phải chiếm lĩnh, vì là đầu não Việt Cộng. Saigon, hay Nghệ Tỉnh Bình là "diện", cầm chân địch.

Mục tiêu nào cần đánh đổ?

Ai Cập lật đổ Hosni Mobarack là coi như cuộc cách mạng của họ thành công. Nhưng đối với các nước "ÐẢNG TRỊ" y như con bạch tuột có nhiều tay vừa quấn, vừa hút máu phải giải quyết cách nào? Cuộc cách mạng tại Việt Nam phải chọn mục tiêu nào, trừ khử đối tượng nào, hay phải trừ khử cả một tập thể gian ác Việt Cộng? Gần 200 đảng viên gian ác của Trung Ương đảng,  trong đó 15 tên đầu sỏ ở Bộ Chính Trị, chúng lại quỷ quái cứ 5 năm lại thay phiên nhau một lần để hút máu mủ đồng bào, những tên "ăn no" rồi thì giữ chặt của cải, những kẻ chưa được ăn thì hy vọng 5 năm tới. Theo thiển ý của tôi, những mục tiêu cần đạt ngay tức khắc và cụ thể, tránh sự "mua thời gian' để thi hành quỷ kế của Việt Cộng là phải lập tức bỏ điều 4 hiến pháp, trả tự do lập tức cho các tù nhân lương tâm, tự do ngôn luận mà tự do báo chí, tự do hội họp, tự do hành đạo… là những đối tượng cụ thể. Sau đó, những biện pháp chuyển quyền cho những nhà đối lập đã có công đấu tranh trong quá khứ và một cuộc bầu cử quốc hội lập hiến trong tự do, công bằng và công khai.

Tunisia đã  là tia lửa cho Ai Cập, Ai Cập là ngọn đuốc cho Phong Trào lật đổ độc tài, đảng trị và tham nhũng toàn cầu. Việt Nam phải là tia lửa tạo thành ngọn lửa đốt cháy Cộng Sản Tàu.

Tình thế không thể đảo ngược. Ý dân là ý trời. Tiến trình của cuộc cách mạng tại Việt Nam không thể nào không xảy ra, nhưng theo thứ tự nào, kết hoạch nào còn tùy vào hoàn cảnh của đất nước, nhất là tùy theo sự sáng suốt hay u mê của Việt Cộng. Bài viết này chỉ là  một vài ý kiến thô thiển, kính mong các bậc thức giả, các nhà đấu tranh trong cũng như ngoài nước đóng góp ý kiến để Ðất Nước chóng thoát khỏi ách độc tài, đảng trị, tham nhũng và tàn bạo của Cộng Sản. Mong lắm thay!

LÊ VĂN ẤN


Chuyện hai ông Thủ tướng bạn của tôi


Thủ tướng nước chủ nhà Thái Lan Abhisit Vejjajiva (phải) bắt tay Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng

Hôm qua khi đang dạo trên mạng Facebook, thì một anh bạn PM hỏi tôi rằng "Anh có thấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không?", khi ấy tôi cũng hỏi lại hoàn toàn theo phản xạ "Có gì không anh?". Khi ấy người bạn mới cho biết hình như anh ta đã bị Thủ tướng cho out khỏi danh sách bạn bè, câu cuối anh bạn còn nói vui "Để tôi thông báo tin tìm Thủ tướng". Sau đó ngồi tôi mới nghĩ lại, trong số mấy trăm bạn bè của mình trên mạng xã hội Facebook mình có 2 ông bạn làm Thủ tướng, một là ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Việt nam và người thứ 2 là ông Abhisit Vejjajiva – Thủ tướng của Vương quốc Thái lan. Nghe oai chưa, để hôm nào có dịp về quê chơi tôi sẽ kể chuyện này cho mấy ông bà ở quê nghe chắc họ mừng cho tôi là con cháu của họ quen những hai ông làm to tới chức Thủ tướng. Vì họ có biết mạng xã hội Facebook, Muntiply… là cái gì đâu?

Nghĩ vế sự ra đời và phát triển của Facebook cũng hay, đúng là thế giới phẳng đã giúp cho sự liên kết giũa các cá nhân thật dễ dàng, bất kể ngừoi đó là ai, ở đâu hay đảm trách công việc chức vụ gì? Mọi ranh giới đều bị xóa bỏ, khi anh muốn kết bạn với tôi hay tôi muốn kết bạn với ai cũng chỉ thông qua các cú click con chuột và trong một thời gian ngắn thì sự liên kết sẽ được kết nối tùy theo chủ quan của bên được mời.

Tôi còn nhớ với ông Thủ tướng Thái lan Abhisit Vejjajiva thì tôi là người chủ động kết bạn với ông ta, khi ấy hình như là giữa năm 2010 lúc mà phong trào biểu tình của phe Áo đỏ đang dâng cao ở thủ đô Bang kok vì. Tôi vốn là người hâm mộ ông Abhisit – Chủ tịch đảng Dân chủ Thái lan, tôi lo lắng cho sự nghiệp chính trị của ông ta đang ở thế ngàn cân treo sơi tóc giữa ra đi và ở lại trong chức vụ Thủ tướng là 50/50. Vì tôi hiểu tâm lý của người Thái lan, trong hoàn cảnh như vậy họ cần sự ủng hộ về mặt tinh thần để củng cố lòng tin. Còn với ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì tôi là người đựoc mời kết bạn từ phía Thủ tướng, khi ấy tôi không nghĩ người có nick name Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với các thông tin cụ thể: "Nguyễn Tấn Dũng – Đang là Thủ Tướng Chính Phủ tại chính phủ việt nam. Sống tại Ha Noi, Vietnam. Đến từ Ap Binh Yen, Cà Mau, Vietnam. Sinh ngày 17 tháng 11 1949″ là người thật, việc thật. Mà khi ấy tôi nghĩ rằng đó chỉ là một anh bạn tinh nghịch nào đó dùng cái tên và chức danh của Thủ tướng mà thôi. Mà nguyên tắc của tôi là thêm bạn sẽ bớt thù, có thêm một người bạn trên mạng xã hội cũng là thêm một bạn đọc cho mình chả mất mát gì vì thế tôi chấp nhận kết bạn với ông Thủ tướng.

Gọi là bạn bè trên mạng ảo, nó khác với bạn bè ở đời thường đó là mình sẽ bị nhận những tin tức hay các suy nghĩ mà họ (bạn bè) quan tâm bất kể là mình muôn hay không muốn. ông Thủ tướng Thái lan còn đỡ, chắc vì lý do công việc nên lâu lâu tôi mới thấy ông ta xuất hiện trên Facebook và thấy ông ta hay bàn về chuyện bóng đá của giải ngoại hạng Anh, mà đội ông ta hâm mộ là đội bóng của thành phố Newcastle, nơi thời tuổi trẻ ông Abhisit đã sống và học tập. Đặc điểm của ông Abhisit là hay tham gia trả lời những câu hỏi liên quan đến các vấn đề mà nhiều người quan tân, bất kể là lĩnh vực gì, dù là chính tri, kinh tế, xã hội hay thể thao văn hóa và luôn giữ vững quan điểm và khuyến khích sự minh bạch trong mọi vấn đề để ai cũng có thể kiểm tra, kiểm soát Điều đó khác hẳn với ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đó là trên Facebook hàng ngày ông Dũng rất chịu khó chia sẻ tin túc từ báo chí trong nước với số lượng khá lớn và đặc biệt là hầu như không thấy Thủ tướng lên tiếng cùng bạn bè của mình. Điều đó cũng đã khiến tôi sinh nghi vì công việc thì quỹ thời gian hạn hẹp của một vị Thủ tướng không cho phép ông ta làm những chuyện không cần thiết đó. Tôi phỏng đoán có lẽ trang đó là của Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng thật, nhưng ông ta giao cho một cá nhân nào đó đảm trách với mục đích để PR cho cá nhân mình cũng hợp thời và theo kịp trào lưu sử dụng mạng xã hội Facebook. Và một điều tôi thắc mắc là không biết Thủ tướng làm thế nào để vào trang mạng Facebook đang bị chặn ở Việt nam, không lẽ ông ta cũng phải trèo tường lửa giống nhân dân bọn tôi?

Được biết hai ông bạn Thủ tướng của tôi cũng có hoàn cảnh xuất thân và tiến thân khác nhau một trời một vực. Một người xuất thân từ một dòng họ có tên tuổi ở Thái lan, đã sinh năm 1964 tại thành phố Newcastle, Anh, học sinh trường Eton, được sống từ nhỏ trong một môi trường xã hội dân chủ ở nước Anh cho tới khi tốt nghiệp ngành Chính trị học, triết và kinh tế học (PPE) ở Đại học Oxford là một trong những viện đại học danh tiếng nhất thế giới. Sau đó trở về nước giảng dạy ở Học viện Quân sự Hoàng gia Chulachomklao, lấy bằng thạc sĩ ở Anh, quay về Thái dạy kinh tế học ở Đại học Thammasat, học về luật ở Đại học Ramkhamhaeng.Năm 1992, gia nhập Đảng Dân Chủ, chính đảng lâu đời nhất Thái Lan. Năm 2001, Abhisit Vejjajiva chạy đua làm lãnh đạo Đảng Dân Chủ nhưng thất bại. Năm 2005, ông được bầu làm người đứng đầu Đảng Dân chủ. Ngày 15 tháng 12 năm 2008, ông được bầu làm thủ tướng thứ 27 của Thái Lan với số phiếu 235 phiếu trong khi đối thủ của ông, Pracha Promnok thuộc đảng Puea Paendin được 198 phiếu và ông cũng là thủ tướng trẻ tuổi nhất trong lịch sử nước này. Đựoc biết, ngay sau khi ông Abhisit được bầu làm thủ tướng, khoảng hơn 200 người đã biểu tình đã tập trung chặn cổng Quốc hội để phản đối ông. Đây là những người ủng hộ cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra, lực lượng tuyên bố sẽ tiếp tục biểu tình trong thời gian tới để phản đối chính phủ do đảng Dân chủ cầm quyền

Còn ngược lại, so với ông Abhisit Thủ tướng Thái lan thì người bạn Thủ tướng thứ 2 của tôi là ông Nguyễn Tấn Dũng sinh năm 1949, việc xuất thân và tiến thân cũng khác nhau đặc biệt là về trình độ học vấn và ý thức chính trị. Ông Dũng ít có thời gian để đi học vì gia nhập Quân đội từ năm 12 tuổi vào đúng ngày sinh nhật thứ 12 của mình (17 tháng 11 năm 1961), thiếu niên Nguyễn Tấn Dũng tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm công tác văn thư, liên lạc, cứu thương, y tá, y sĩ. Rồi được sự quan tâm đặc biệt chỉ trong vòng 30 năm (1975-2006) từ một thượng úy ông Dũng đã trải qua nhiều trọng trách của nhà nước, như Thứ trưởng Bộ nội vụ, UVTƯ Đảng CSVN, UV Bộ Chính trị, Thống đốc NHNN, Phó Thủ tướng rồi Thủ tướng Chính phủ mà không hề có một sự thi đua cạnh tranh của bất kỳ đối thủ nào cả. Cũng có lẽ vì lý do này mà ông Thủ tướng Dũng đã thiếu ý thức dân chủ và có nhiều biểu hiện độc tài, coi thường quần chúng nhân dân trong công tác lãnh đạo, thể hiện qua các chỉ thị, nghị định hay các văn bản dưới luật đa phần là vi hiến.

Tôi thích và hâm mộ ông Abhisit Vejjajiva vì ông ta luôn tôn trọng và coi trọng quần chúng nhân dân, những người đã góp lá phiếu của mình cho sự thành đạt trong con đường chính trị, nhưng quan trọng hơn là ý thức tôn trọng sự minh bạch trong mọi vấn đề. Với ông Abhisit luôn luôn coi trọng và đề cao sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan liên quan trong công việc điều hành của chính phủ. Một việc làm mà tôi có ấn tượng nhất của các Thủ tướng nước Thái, không chỉ thời của Thủ tướng Abhisit mà có từ các vị Thủ tướng tiền nhiệm của ông ta đó là chương trình truyền hình kéo dài 90 phút mỗi sáng chủ nhật trên kênh của Đài truyền hình quốc gia mang tên "Thủ tướng với nhân dân". Chương trình đó dành cho Thủ tướng báo cáo các vấn đề có tính thời sự hoặc những công việc mà chính quyền sẽ tiến hành trong thời gian tới về chính trị, kinh tế, xã hội v.v… và đồng thời để đối thoại với dân chúng. Trong chương trình đó, người dân có thể gọi điện, hay SMS để dặt các câu hỏi liên quan mà mình quan tâm cho Thủ tướng. Cũng là dễ hiểu mọi câu hỏi của dân chúng đều được tiếp nhận và trả lời công khai trong buổi truyền hình của chủ nhật kế tiếp, Thủ tướng muốn lấy lòng cử tri thì đây là những cơ hội bằng vàng của họ, những nguyên thủ của dân, do dân bầu và làm việc vì nhân dân.

Qua mạng internet cũng được biết rằng Thủ tướng Dũng cũng rất muốn PR bản thân mình với công chúng, thì tại sao Thủ tướng Dũng không học họ cách làm này, khi mà Đài truyền hình Việt nam nằm trong tay ông sao ông không biết sử dụng mà tuyên truyền cho cá nhân ông và đảng của ông? Việc làm như vậy sẽ giúp ông gần với dân chúng hơn, qua đó dân tin hay không tin vào cá nhân ông hay chính quyền của ông cũng thông qua lời hứa và việc làm cụ thể. Sẽ không có kiểu hứa hươu, hứa vượn nhận trách nhiệm rồi sẽ báo cáo cụ thể như vụ Vinashin mà ông từng hứa trước Quốc hội cho xong rồi để từ ngày ấy cho đén nay. Cách làm này là con dao hai lưỡi, sẽ có tác dụng tích cực với các vị Thủ tướng cần sự ủng hộ của nhân dân và ngược lại nó sẽ có tác dụng tiêu cực với những kẻ cầm quyền đi lên không bằng ý chí đông đảo của dân chúng qua lá phiếu bầu cử.

Trong những ngày này, khi mà các nguyên thủ của các quốc gia độc tài trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các đồng chí của ông ta ở Việt nam đang choáng váng với kết cục chính trị bi thảm với các nhà độc tài ở Tunisia, Ai cập và các quốc gia khác ở Trung Đông phải hứng chịu. thì giải pháp này có lẽ là một lối thoát tích cực cho cá nhân ông Thủ tướng và đảng CSVN của các ông.

Người Việt nam mình có tính bao dung và độ lượng, không bỏ bạn trong lúc hoạn nạn, tôi không dám phạn thượng bằng một bức thư ngỏ như người khác, cũng hy vọng bằng bài viết này khi phổ biến trên mạng có cả mạng xã hội Facebook thì hai ông bạn Thủ tướng của tôi sẽ được biết và được đọc. Chắc không ít thì nhiều nó cũng giúp cho ông Thủ tướng Việt nam rút ra vài điều bổ ích cho chính mình.

Bạn bè dù là trên mạng ảo thì tôi cũng chỉ biết giúp nhau như thế thôi. Thưa ông bạn Thủ tướng của tôi.

Sài gòn, ngày nắng đẹp 16/02/2011